Căn cứ quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau:
- Nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Việc kết hôn phải do nam và nữ tự nguyện quyết định;
- Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
- Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định.
Khi yêu cầu đăng ký kết hôn, nam nữ chưa đáp ứng những điều kiện trên thì UBND xã phường (hoặc UBND cấp quận, huyện nếu có yếu tố nước ngoài) nơi cư trú có quyền từ chối đăng ký kết hôn. Trong trường hợp nam, nữ đã được đăng ký kết hôn nhưng một trong các bên hoặc cả hai bên vi phạm một trong các điều kiện kết hôn thì việc kết hôn đó là trái pháp luật và Tòa án có quyền huỷ bỏ việc kết hôn trái pháp luật đó khi có yêu cầu.
Thứ nhất, về điều kiện độ tuổi kết hôn của nam, nữ
Tùy thuộc về điều kiện kinh tế – xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống, văn hóa của dân tộc và trên cơ sở tham khảo lĩnh vực y khoa mà từng quốc gia có quy định về độ tuổi kết hôn khác nhau. Tại Việt Nam, việc quy định độ tuổi của nữ từ đủ 18 tuổi trở trên phù hợp và thống nhất với Bộ Luật dân sự năm 2015; theo đó người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải là người đủ 18 tuổi trở lên.
Về cách tính tuổi: Với quy định về tuổi kết hôn theo pháp luật hiện hành, để tính tuổi kết hôn phải dựa vào cách tính tròn tuổi. Nghĩa là, chỉ coi là đủ tuổi kết hôn khi nam tròn 20 tuổi và nữ phải tròn 18 tuổi. Ví dụ: Nam sinh ngày 1-11-2001 thì đến ngày 1-11-2021 là đủ tuổi kết hôn.
Thứ hai, phải có sự tự nguyện của nam và nữ
Sự tự nguyện trong kết hôn trước hết phải thể hiện bằng ý chí chủ quan của người kết hôn. Hai bên nam, nữ yêu thương nhau và tự mình quyết định xác lập quan hệ hôn nhân nhằm mục đích xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Ý chí này của mỗi bên nam, nữ không bị tác động bởi một bên hoặc của người thứ ba (thông thường là ông, bà, cha, mẹ…)
Ngoài ra, sự tự nguyện kết hôn còn thể hiện bằng dấu hiệu khách quan. Người kết hôn phải bày tỏ mong muốn được kết hôn với nhau trước cán bộ tư pháp tại UBND xã phường (hoặc UBND cấp quận, huyện nếu có yếu tố nước ngoài) nơi cư trú thông qua hành vi đăng ký kết hôn. Theo đó khi đăng ký kết hôn bắt buộc phải có mặt của hai bên nam, nữ. Quyền kết hôn là quyền gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân. Do vậy việc kết hôn phải do người kết hôn tự nguyện quyết định. Tự nguyện kết hôn là để đảm bảo quan hệ hôn nhân được xác lập phù hợp với lợi ích của người kết hôn, là cơ sở để xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc và bền vững. Vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình không cho phép ủy quyền đại diện trong đăng ký kết hôn; đồng thời cấm hành vi cưỡng ép, lừa dối, cản trở kết hôn tự nguyện.
Thứ ba, Người kết hôn không bị mất năng lặc hành vi dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Bộ Luật dân sự năm 2015 thì khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người đó mất năng lực hành vi trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Như vậy, tại thời điểm kết hôn mà một người có quyết định của Tòa án tuyên bố người đó là người mất năng lực hành vi dân sự thì không đủ điều kiện kết hôn. Quy định này đảm bảo tính tự nguyện kết hôn. Bởi vì, người mất năng lực hành vi dân sự thì không thể tự nguyện bày tỏ ý chí của mình trong việc kết hôn.
Trên thực tế có nhiều trường hợp người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng không có yêu cầu Tòa án tuyên người đó là người mất năng lực hành vi dân sự. Vì thế, họ vẫn đủ điều kiện kết hôn nhưng có thể dẫn đến nhiều hệ lụy không tốt cho gia đình và xã hội sau này.
Thứ tư, không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
Pháp luật quy định các trường hợp cấm kết hôn là nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng; giữ gìn thuần phong mỹ tục của người Việt Nam đối với đời sống hôn nhân và gia đình, góp phần duy trì và bảo tồn nòi giống, thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 thì việc kết hôn bị cấm các hành vi sau:
– Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
– Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
– Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
– Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
Thứ năm, Việt Nam không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính
Điều này có nghĩa, hôn nhân phải là sự “kết hợp” giữa nam và nữ. Quy định này trước hết tôn trọng quy luật tự nhiên. Mặt khác, trong bối cảnh chung của thế giới cũng như điều kiện thực tế của Việt Nam, việc quy định như vậy là cần thiết và phù hợp nhằm ổn định quan hệ hôn nhân và gia đình. Thực tế, ở Việt Nam trong những năm gần đây có xuất hiện tình trạng những người cùng giới tính xác lập việc sống chung với nhau. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng không cấm hai người cùng giới tính sống chung. Vì vậy, việc sống chung giữa hai người cùng giới tính về nguyên tắc không bị coi là trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu một người đang có vợ, có chồng nhưng lại chung sống với người khác cùng giới tính với mình thì giải quyết như thế nào, trường họp này có xác định là người đang có vợ, có chồng đã vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng hay không. Đây là vấn đề mà pháp luật hiện hành vẫn chưa có quy định rõ ràng, dễ phát sinh tranh chấp, gây bất ổn đến các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Tác giả: Thạc sĩ Luật sư Võ Minh Thành sưu tầm